Read more
Thích Nhất Hạnh Podcourse by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Con Đã Có Đường Đi
Con Đường Của Phật
Những đóng góp của đạo Phật cho một nền đạo đức toàn cầu
Chương 2. Giành Lại Chủ Quyền
Chủ Quyền Của Một Vị Quốc Vương
Hơi thở và bước chân
chánh niệm sẽ đem tâm về với thân. Khi thân tâm hợp nhất thì chúng ta mới thật
sự có mặt trong giây phút hiện tại và có chủ quyền về thân và tâm của mình. Nếu
đánh mất chánh niệm thì chúng ta sẽ bị đời sống hằng ngày kéo đi, ta sẽ bị chìm
đắm, trôi lăn theo những lo lắng sầu khổ, theo tập khí và thói quen. Một khi đã
bị chìm đắm và trôi lăn thì ta mất hết tự do, ta không còn chủ quyền đối với
thân tâm mình nữa. Ta có chủ quyền nhưng không biết sử dụng chủ quyền đó thì chẳng
khác gì một vị vua bị tước mất quyền làm vua, cứ để mặc cho người khác muốn làm
gì thì làm và vương quốc lâm vào tình trạng bê bối.
Tâm ta là một vương
quốc với lãnh thổ khá rộng. Nó bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Nếu ta để
cho những cảm xúc và tri giác bị kéo đi bởi những thói quen và tập khí thì ta
đánh mất chủ quyền trên lãnh thổ của mình. Khi dùng hơi thở và bước chân để trở
về với giây phút hiện tại, để hợp nhất thân tâm là ta bắt đầu có chủ quyền. Ta
đi là tại ta muốn đi chứ không phải bị kéo đi; ta nói là vì ta muốn nói chứ
không phải bị ma xúi bẩy. Thực tập chánh niệm giúp ta khôi phục chủ quyền và
làm lớn mạnh chủ quyền.
Có Hay Không Có Tự Do Ý Chí?
Trong lĩnh vực triết
học, người ta đang đặt vấn đề rằng có hay không có tự do ý chí. Có những trường
phái triết học khẳng định có tự do ý chí, nhưng cũng có những trường phái thì
phản bác lại quan điểm trên. Vấn đề này vẫn chưa ngã ngũ. Tuy nhiên, Bụt xác nhận
rằng nếu biết thực tập chánh niệm, ta sẽ có nhiều chủ quyền và đạt đến tự do lớn.
Khi ấy, ta có tự do nói những điều ta muốn nói, và làm những điều ta muốn làm.
Tuy nhiên sự tự do này còn bị giới hạn vì trong ta vẫn còn bị những thói quen
và tập khí kéo đi. Một người mới tu thì những tự do đó còn hạn hẹp. Nhưng nếu
chánh niệm và chánh định lớn lên thì tự do cũng sẽ lớn lên theo, càng thực tập
thì giới hạn đó càng mở rộng ra. Tự do để không bị chìm đắm và trôi lăn. Chìm
là chìm xuống, lăn là trôi đi.
Thi Vị Hóa Sự Thực Tập
Tôi đã có rất nhiều tự
do và hạnh phúc nhờ công phu thực tập thiền thở và thiền đi. Trong khi thực tập,
tôi đã kết hợp với việc áp dụng các bài thi kệ. Và lâu lâu, tôi cũng thay đổi
các bài kệ để sự thực tập mới mẻ hơn, hiệu quả hơn. Bài thi kệ đã được tôi sử dụng
trong một thời gian dài là bài “Nương Tựa A Di Đà” (xem bài Phát nguyện – Công
phu chiều thứ sáu, Nhật tụng thiền môn năm 2010).
Trong khóa tu tổ chức
tại nước Anh vừa rồi, tôi đã sử dụng bài này rất nhiều. Đôi khi tôi cũng sử dụng
bài “Đây Là Tịnh Độ”. Nhưng bài kệ được tôi sử dụng nhiều nhất (nhiều hơn cả
bài Nương Tựa A Di Đà) là bài “Quay Về Nương Tựa”. Tôi đã sử dụng bài này suốt
mấy chục năm qua:
Quay về nương tựa
Hải đảo tự thân
Chánh niệm là Bụt
Soi sáng xa gần
Hơi thở là Pháp
Bảo hộ thân tâm
Năm uẩn là Tăng
Phối hợp tinh cần
Thở vào, thở ra
Là hoa tươi mát
Là núi vững vàng
Nước tĩnh lặng chiếu
Không gian thênh thang.
Trong thiền đi, nếu
ta phối hợp được giữa ba yếu tố: hơi thở, bước chân và thi kệ thì sự thực tập của
ta sẽ trở nên rất thi vị. Ta cần sắp đặt việc ngắt nhịp câu chữ của bài thi kệ
như thế nào cho khớp với bước chân và hơi thở của chính mình.
Khi thở vào, ta bước
hai bước và đọc thầm “quay về”, thở ra ta bước hai bước và đọc thầm “nương tựa”,
thở vào: “hải đảo”, thở ra: “tự thân”. Ta cũng có thể bước ba bước khi thở vào,
ba bước khi thở ra. Thở vào: "con quay về", thở ra "và nương tựa".
Tôi có thêm một bản ba chữ cho bài kệ này:
Con quay về
Và nương tựa
Nơi hải đảo
Của tự thân
Chánh niệm ấy
Chính là Bụt
Đang soi sáng
Khắp xa gần
Hơi thở này
Là Chánh Pháp
Đang bảo hộ
Thân và tâm
Năm uẩn đó
Là Tăng Thân
Đang phối hợp
Rất tinh cần
Con thở vào,
Con thở ra
Là bông hoa
Con tươi mát
Lá đỉnh núi
Con vững vàng
Là nước tĩnh
Con lặng chiếu
Là không gian
Con thênh thang.
Bài bốn chữ hay sáu
chữ là do ta đặt ra, tuỳ theo ta phối hợp. Bài nào ta cũng có thể biến chế cho
phù hợp với sự thực tập của mình. Khi thực tập thiền chạy, ta cũng có thể thực
tập hơi thở. Thở vào ta chạy bốn bước kết hợp với niệm bốn chữ “quay về nương tựa”,
thở ra “hải đảo tự thân”. Ta cần luôn nhớ phối hợp hơi thở, bước chân với bài kệ.
Các bài kệ sẽ giúp ta duy trì được tâm định. Và điều quan trọng là ta cần làm
như thế nào để gây được hứng thú, để chế tác được niềm vui trong mọi thực tập,
dù là trong lúc thiền hành, chạy bộ hay tập khí công…
Thực Tập Cho Những Người Thương
Tôi rất thích bài “Để
Bụt thở để Bụt đi”:
Bụt đang tản bộ
Bụt đang rong chơi
Bụt đang hạnh phúc
Bụt đang thảnh thơi.
Bụt là ta. Ta thấy được
Bụt đang tản bộ, đang rong chơi, đang hạnh phúc, đang thảnh thơi, và ta cũng có
thể làm được tất cả những điều này:
Con đang tản bộ
Con đang rong chơi
Con đang hạnh phúc
Con đang thảnh thơi.
Con cũng không thua
gì Bụt. Ta có thể đi cho mẹ, cho ba. Khi đi, ta thấy hai chân này là của mẹ, của
ba.
Mẹ đang tản bộ
Mẹ đang rong chơi
Mẹ đang hạnh phúc
Mẹ đang thảnh thơi.
Hay là:
Ba đang tản bộ
Ba đang rong chơi
Ba đang hạnh phúc
Ba đang thảnh thơi.
Ta cũng có thể đi cho
Thầy:
Thầy đang tản bộ
Thầy đang rong chơi
Thầy đang hạnh phúc
Thầy đang thảnh thơi.
Tất cả những người đó
đều là ta, đang có trong ta và họ cũng đang thực tập. Để cho sự thực tập của đời
sống hằng ngày thêm phong phú, ta có thể chế tác bài kệ theo những sinh hoạt
hàng ngày cho phù hợp, ví dụ:
Bụt đang quét nhà
Bụt đang rong chơi
Bụt đang hạnh phúc
Bụt đang thảnh thơi.
Hay:
Con đang quét nhà
Con đang rong chơi
Con đang hạnh phúc
Con đang thảnh thơi.
Khi thực tập như vậy
ta phải đem hết tâm trở về với thân trong giây phút hiện tại, ta sẽ thấy sự sống
thật mầu nhiệm, sẽ thấy Tịnh độ có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Một khi
đã nếm được hạnh phúc trong giây phút hiện tại rồi, ta không còn đi tìm hạnh
phúc hay Tịnh độ trong tương lai nữa.
Nếu có cơ hội pháp
đàm, chúng ta cần tạo điều kiện để cho mọi người nói ra cách thực tập của chính
bản thân. Người đó thực tập thiền đi như thế nào? Thiền thở ra làm sao? Qua sự
chia sẻ đó, ta sẽ có cơ hội nhìn lại sự thực tập của chính mình: Ta đã thực tập
hết lòng chưa? Đã giỏi chưa? Đã có đủ hạnh phúc chưa? Tu tập chung với tăng
thân là cơ hội lớn cho ta tập làm những chuyện này, năng lượng của tăng thân sẽ
giúp sự thực tập của ta trở nên tự nhiên và dễ dàng hơn. Bởi ai cũng đang thực
tập, đang an trú trong hiện tại, lẽ nào ta lại đơn độc trong sự rong ruổi và
trôi lăn? Chính điều này giúp ta có thêm ý chí và quyết tâm trong sự thực tập.
Ta có thể tự thách thức mình rằng: "Hiện nay, đang có thầy, có bạn cùng thực
tập chung, nếu tôi không tìm ra được hạnh phúc thì chẳng bao giờ tôi tìm ra hạnh
phúc."
Tịnh Độ Là Đây
Sự thực tập của Làng
Mai chú trọng ở giây phút hiện tại. Nếu muốn tìm Thiên chúa, Niết bàn hay Tịnh
độ thì phải tìm ngay trong giây phút hiện tại. Nếu muốn tìm an lạc, hạnh phúc
cũng phải tìm trong giây phút hiện tại. Nếu muốn tìm sức khoẻ cũng tìm nó trong
hiện tại, dù rằng ta đang có bệnh. Trong giây phút ấy, nếu biết thở, biết đi, bệnh
sẽ bắt đầu được thuyên giảm. Còn làm ngược lại thì bệnh trạng sẽ càng tệ hơn mà
thôi. Hãy trở về với giây phút hiện tại, thân và tâm của ta sẽ được tận hưởng rất
nhiều nguồn năng lượng tươi mát, lành mạnh của tăng thân và những nhiệm mầu của
cuộc sống.
Nếu ta không tìm được
hạnh phúc ở hiện tại thì sức mấy mà ta tìm được hạnh phúc ở tương lai? Hiện tại
ta mà không tìm được hạnh phúc, liệu ta có tìm được hạnh phúc ở Tịnh độ? Giả sử
hiện giờ bạn đang bất an, nếu đặt chân lên Tịnh độ thì ngựa cũng sẽ quen đường
cũ, bạn cũng vẫn cảm thấy không dễ chịu, không thể ở yên được, và bạn cũng sẽ bỏ
đức A Di Đà mà ra đi thôi.
Hòa thượng Thích
Thanh Từ đã viết: “Phật giáo không phải là một hệ thống lý thuyết, mà là một hệ
thống thực hành. Nếu bạn không thực hành, bạn không thể hiểu được Phật giáo.”
Hạnh phúc chỉ có thể là bây giờ, hoặc không bao giờ! Ta cần phải biết lựa chọn: An trú trong hiện tại, hạnh phúc trong hiện tại hay là trầm luân? Hơi thở và bước chân là những chiếc phao giúp ta nổi lên trên dòng chảy của quá khứ, của tương lai mà không bị nó nhấn chìm. Hơi thở và bước chân cũng là những chiếc neo giúp thuyền của ta không trôi đi theo những dòng chảy. Thực tập hơi thở và bước chân có nội dung là ta bắt đầu xác lập được chủ quyền với chính mình.
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Sự thực tập hơi thở
và bước chân là thực tập căn bản của Làng Mai. Và thực tập phải có phẩm chất, đừng
để rơi vào hình thức. Khi đi, phải biết là ta đang đi chứ không phải bị kéo đi;
khi thở, biết là ta đang được thở chứ không phải bị thở. Khi phát ra một tư tưởng
buồn giận thì ta biết đây là một tư tưởng buồn giận và ý thức rằng tư tưởng buồn
giận sẽ không có lợi cho sức khoẻ của mình, không đem lại hạnh phúc cho mình.
Như vậy là ta có chủ quyền về thân tâm của ta rồi.
Đừng hiểu lầm rằng
không có tư tưởng buồn giận mới là có chủ quyền. Có tư tưởng buồn giận mà biết
đây là tư tưởng buồn giận tức là ta có chủ quyền tại vì lúc ấy ta có chánh niệm.
Có chủ quyền với hơi thở và bước chân thì ta có thể làm nơi nương tựa cho mọi
người. Đó là phẩm vật quý giá nhất dâng lên Tam Bảo, trong đó có Tăng Thân. Ta
đâu cần phải làm gì to tát? Đơn giản chỉ cần biết uống trà, chải răng, đi
toilet, quét nhà, rửa rau… trong hạnh phúc và thảnh thơi. Điều đó tưởng chừng
như đơn giản nhưng nó lại là một thách thức. Có được gọi là người tu chính hiệu
hay không đều tùy thuộc vào việc ta có vượt qua những thách thức kia được hay
không.
Hãy Hiểu Khổ Đế Như Những Nỗi Khổ Đau Có Thực Của Chính Bản Thân
Và Thời Đại
Chúng ta thường được
học và hiểu về khổ đế như là cái khổ của sinh, già, bệnh và chết; như là sự ham
muốn nhưng không được thỏa mãn: yêu thương nhau mà phải xa lìa; ghét nhau mà phải
gần nhau; như là khổ đau khi năm uẩn chống báng nhau… Đây là cách diễn tả về khổ
đế của người xưa. Nó mang tính biểu trưng, tính hình thức.
Nếu nói nguyên nhân
xuất gia của thái tử Tất Đạt Đa chỉ vì thấy cảnh sanh, lão, bệnh, tử trong một
chuyến du ngoạn qua bốn cổng thành thì quá sơ sài. Chúng ta được biết lúc đi xuất
gia, thái tử đã 26, 27 tuổi rồi, lại là người rất thông minh, tinh thông triết
học, lẽ nào lại không biết sanh, lão, bệnh, tử là gì?
Trong "Đường Xưa
Mây Trắng", tôi nói thái tử đi xuất gia là vì thấy trong dân chúng khổ và
trong triều đình cũng khổ, vua cha khổ mà các quan đại thần cũng khổ. Tuy họ có
quyền hành và địa vị nhưng họ vẫn khổ vì sự chia rẽ, tranh giành quyền lực, đấu
đá lẫn nhau; vì chính họ cũng có những khó khăn không giải quyết được nên họ
không thể nào giúp được cho người dân, để cho dân chúng lâm vào cảnh nghèo đói,
bệnh tật. Từ thực tế ấy, Ngài thấy được rằng chính trị, quyền hành và địa vị
không thể mang lại niềm an vui cho chính mình và cho đất nước. Do đó, Ngài muốn
đi tìm hạnh phúc, an vui cho mình, cho những người xung quanh theo một hướng
khác.
Ở thời đại này, khi đề
cập đến khổ đế, ta cần phải trình bày sao cho khế hợp. Trong khóa tu với nội
dung: "Đạo Phật Dấn Thân" được tổ chức tại Hà Nội nhân dịp lễ Phật đản
năm 2008, tôi có nói rằng khi nhắc đến khổ, trước tiên ta cần đề cập đến những
nỗi khổ có thật trong thân và tâm của chính ta như: lo lắng, sợ hãi, căng thẳng,
bạo động, giận hờn, trừng phạt… Đó là những căn bệnh kinh niên. Không biết lo
cái gì, sợ cái gì, nhưng cứ lo hoài, sợ hoài. Khi năng lượng của sự giận dữ xâm
chiếm thì ta muốn đập phá, muốn trừng phạt và muốn làm cho người kia đau khổ, tại
vì người đó đã dám làm cho ta đau khổ. Trong ta sẵn có năng lượng bạo động, bực
tức, muốn phản ứng và muốn phá đổ.
Hiện nay trong xã hội
có rất nhiều năng lượng bạo động. Việc khủng bố vốn là bạo động, nhưng chống khủng
bố cũng bạo động không kém gì. Tôi còn nhớ, trong chuyến hoằng pháp tại Nam
Hàn, tôi có tham dự một buổi diễn đàn hoà bình của tổ chức Liên Tôn. Lúc ấy, tình
hình Iraq rất căng thẳng. Dù Mỹ chưa chiếm đóng Iraq nhưng mọi thứ chuẩn bị cho
việc đánh chiếm Iraq đã sẵn sàng. Iraq có thể bị bỏ bom, có thể bị bao vây bất
cứ lúc nào. Trong buổi thuyết trình ấy, tôi có nói là nếu là một người dân đang
sống tại thành phố sắp bị chiếm đóng thì sẽ rất lo sợ, không biết bom sẽ dội xuống
thành phố lúc nào. Những người dân phải sống trong tình trạng sợ hãi như vậy trong
suốt một ngày thì sức khỏe sẽ bị ảnh hưởng rất xấu. Huống hồ gì phải sống trong
tình trạng ấy liên tục nhiều ngày nhiều tháng?
Thành phố có thể chưa
bị bao vây, chưa bị chiếm đóng, nhưng người dân đã lo lắng và sợ hãi rồi. Cái
đó là bạo động, là khủng bố. Khủng bố và bạo động với chính mình. Như vậy, bạo
động và khủng bố đến từ hai phía chứ không đến từ một phía như thông thường ta
hay nghĩ. Bạo động có trong tất cả chúng ta. Người có nhiều bạo động thì khổ nhiều,
người có ít bạo động thì khổ ít.
Bạo Hành Trong Gia Đình
Một trong những vấn đề
được quan tâm nhất hiện nay của xã hội là hiện tượng bạo hành trong gia đình.
Khi cha mẹ chống báng nhau, gia đình đổ nát thì những đứa con phải lãnh chịu rất
nhiều bất hạnh và khổ đau. Chúng khó có thể phát triển toàn diện và bình thường
về nhân cách được. Khi trưởng thành, đại đa số những người con ấy mất niềm tin
vào cuộc sống lứa đôi. Trên thế giới, tỉ lệ ly dị của các cặp vợ chồng rất lớn.
Ở Hòa Lan tỉ lệ ly dị lên tới hơn 50%.
Những rạn nứt trong đời
sống gia đình, lứa đôi và sức ép của xã hội đã dẫn đến những hậu quả khá nghiêm
trọng và rất thương tâm. Đặc biệt là tình trạng tự tử. Theo thống kê, ở Việt
Nam, khoảng vài giờ đồng hồ là có một người tự tử. Ở Pháp, mỗi năm, có trên mười
hai ngàn (12.000) người trẻ tự tử. Nghĩa là mỗi ngày, có khoảng ba mươi ba (33)
thanh niên chết vì tự tử. Bên cạnh đó còn có chiến tranh, khủng bố, sự phá hoại
của môi trường và sự hâm nóng của địa cầu. Đây là những cái khổ đang có thực
trong đời sống và ta phải gọi đúng tên chúng.
Ta phải hiểu rằng Khổ đế là những nỗi khổ đang đích thực có mặt.
Đừng hiểu lầm ý Bụt mà khẳng định rằng cái gì cũng chỉ toàn là khổ đau. Ta cần
phải phân biệt được rõ ràng hai vấn đề sau: Chấp nhận khổ đau đang có mặt, và xử
lý khổ đau. Rõ ràng, hai vấn đề này hoàn toàn khác nhau. Chúng ta cần điều chỉnh
lại cách nhận thức của mình về giáo lý khổ đế mà Bụt đã dạy.
Ví dụ, chúng ta có thể
nói cái bàn vô thường hoặc vô ngã thì được, chứ còn nói cái bàn khổ thì hơi khó
nghe. Mình khổ chỉ khi nào mọi vật vô thường mà mình cho là thường, mọi vật vô
ngã mà cho là ngã. Khổ là một thái độ, một sự phản ứng của ta với các hiện tượng
chứ không phải là bản chất của sự vật. Ta đừng nên bị nhồi sọ bởi thái độ giáo
dục: Đi tìm khổ như bản chất của vạn hữu. Nếu làm vậy, ta đang nghĩ oan cho Bụt.
Bụt chỉ nói rằng, có khổ đau, đừng chạy trốn khổ đau, và phải nhận diện những khổ
đau đó, để tìm cách giải quyết.
Nhận Diện Và Chuyển Hóa Khổ Đau
Nếu bị kẹt vào ý niệm
mọi thứ đều là khổ, ta sẽ trốn chạy, sẽ đè nén, sẽ không dám đối diện với những
khổ đau. Trong khi đó, muốn chuyển hóa được khổ đau, ta phải nhìn sâu vào khổ
đau để tìm ra cội rễ của những khổ đau này.
Ví dụ, ta đang có sự
căng thẳng trong thân, nếu không biết tại sao có những căng thẳng ấy thì làm
sao ta có thể tự chữa trị cho chính mình? Nếu biết được căng thẳng là do ta quá
bận rộn, do ta không an trú được trong giây phút hiện tại, do ta chưa có cơ hội
để buông thư, thì ta sẽ có được giải pháp rất thích hợp cho chế độ nghỉ ngơi của
chính mình. Còn ngược lại nếu mỗi ngày một ít, ta tự chất chứa, dồn nén những
căng thẳng thì sau nhiều ngày, những căng thẳng bị dồn chứa ấy sẽ mang đến cho
ta nhiều bệnh tật. Do vậy, khi có căng thẳng, ta cần phải cho phép mình được
buông thư, hoặc dành thời gian để ngồi thiền, đi thiền thì những căng thẳng sẽ
được thư giãn, không bị dồn nén nữa.
Xã hội bây giờ ai
cũng có căng thẳng, đó là sự thật thứ nhất. Sự thật thứ hai là cách ta tổ chức
đời sống làm cho ta càng ngày càng bị căng thẳng. Đó là những sự thật về đạo đức
mà không phải là những giả thuyết. Đó là thực tế.
Ta đã cùng nhau nhận
diện và gọi tên những khổ đau của xã hội ngày nay. Những khổ đau này không có mặt
riêng biệt. Chúng tương tức với nhau. Phần lớn các vấn đề xảy ra đều có liên
quan đến sự căng thẳng. Nếu không căng thẳng, ta có thể giải quyết vấn đề một
cách nhẹ nhàng, bình tĩnh, không nóng nảy. Tất cả những cái khổ đều tương tức với
nhau. Do đó, khi tìm ra được nguyên do của một cái, ta sẽ tìm ra được nguyên do
của những cái khác. Ta cũng nên biết, mỗi khổ đau xảy đến từ nhiều nguyên nhân.
Bát Tà Đạo, Con Đường Đưa Tới Khổ Đau
Có thể là từ trước đến
nay chưa có ai nói khổ tập (nguyên nhân của nỗi khổ) là lề lối sống. Khổ đau là
do lối sống của ta dựa trên những tà kiến.
Ví dụ, nếu thấy ta và
con ta là hai thực thể khác nhau mà không thấy được con ta là sự tiếp nối của
ta, thì cái thấy này là tà kiến. Vì không thấy được sự thật tương tức nên ta
còn có cái nhìn nhị nguyên, kỳ thị, cho rằng hạnh phúc của con không phải là hạnh
phúc của mình, rằng khổ đau của con không phải là khổ đau của mình. Nhưng sự thật
thì khi con ta khổ đau thì ta khó mà có hạnh phúc được.
Tà kiến là không thấy được tính duyên sinh của vạn vật, không thấy
được tính vô thường, vô ngã và tính tương tức của vạn vật. Trong con đường Bát
chánh, con đường đưa tới sự diệt khổ, có chánh kiến. Còn tập đế là con đường
đưa tới tà kiến.
Người Palestin phải thấy
nỗi khổ niềm đau của người Do Thái là nỗi khổ niềm đau của mình, và người Do
Thái cũng phải thấy như vậy. Nếu có chánh kiến đó, hai bên sẽ cộng tác với nhau
được, và hai bên đều có hạnh phúc. Trường hợp giữa cha và con, giữa người Mỹ và
người Iraq, người Hồi giáo và người Ấn Độ giáo cũng vậy.
Nếu có tà kiến, chắc
hẳn sẽ có tà tư duy. Vấn đề này liên quan đến đạo đức. Bởi đạo đức là khả năng phân
biệt được giữa cái chánh và cái tà. Người Việt diễn tả chánh là thẳng, còn tà
là nghiêng. Muốn có đạo đức thì phải có cái thấy rõ rang về chánh và tà. Tà kiến
là cái thấy sai lạc. Tổ Lâm Tế nói: "Người tu phải có chánh kiến"
(cái thấy chân chánh). Nếu cái thấy sai lạc, tư duy của ta cũng sẽ sai lạc, tà
tư duy, và tà tư duy sẽ đưa tới sự sợ hãi và bạo động.
Ví dụ, nếu nghĩ rằng
ta không giết kẻ kia trước thì chắc chắn kẻ kia sẽ giết mình, và vì vậy ta phải
tìm cách giết kẻ đó trước. Cái này gọi là tà tư duy vì sự thật không phải như vậy.
Đây chỉ là cái thấy lầm lạc do nghi ngờ và sợ hãi đem đến mà thôi. Khi có tà tư
duy, sẽ dẫn tới:
Tà ngữ: Lời nói sai
trái.
Tà nghiệp: Thói quen
xấu.
Tà mạng: Làm ăn không
chân chánh, phá hoại môi trường, cướp đoạt cơ hội sinh sống của những người
khác, nói dối để người khác tiêu dùng những sản phẩm có hại cho sức khỏe của họ.
Tà tinh tấn: Siêng
năng không đúng chỗ, cứ mê mải làm việc suốt ngày đêm, đến nỗi quên cả gia đình
và bản thân mình nên bị dồn chứa căng thẳng, lo lắng.
Tà niệm: Lúc nào cũng
nghĩ tới chuyện làm giàu, làm sao để có nhiều quyền hành, danh vọng và sắc dục,
không bao giờ có mặt trong giây phút hiện tại; chỉ chạy theo, trôi lăn theo đối
tượng của dục.
Tà định: Chỉ chăm chú
vào những chuyện trái với cái thấy tương tức, mình và đối tượng của mình không
liên quan gì đến nhau, đối tượng của mình rất nguy hiểm, mình phải tiêu diệt
nó.
Tà kiến: Cái thấy sai
lầm. Khi niệm hùng hậu thì sẽ đưa tới định. Nhưng nếu đối tượng của niệm là dục
thì đối tượng của định cũng chính là dục. Có những người lúc nào cũng nghĩ tới chuyện
làm sao để có nhiều quyền hành, với người ấy đối tượng niệm của họ là quyền
hành. Khi đối tượng của niệm là giàu sang, danh vọng hay sắc dục thì cái niệm
đó cũng đưa tới một thứ định nhưng là tà định.
Khi có tà niệm và tà
định sẽ đưa tới tà kiến. Chính vì có tà kiến mới có tà niệm và tà định. Chúng tương
tức với nhau. Tà kiến nuôi tà niệm và tà định, rồi tà niệm và tà định lại nuôi
tà kiến, cứ vòng vòng như vậy. Đây không phải là con đường bát chánh mà là con
đường bát tà. Sở dĩ chúng ta có khổ đau là bởi vì chúng ta đi trên con đường tà
đạo: con đường của tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà định, tà
niệm và tà tinh tấn. Phần tà nhiều hơn phần chính.
Bát chánh đạo đưa tới
hạnh phúc và bát tà đạo đưa tới khổ đau. Khi đi tìm nguyên nhân của khổ đau thì
ta có thể đi tìm ngay trong nếp sống hiện tại của ta, những nguyên nhân này đến
từ con đường bát tà.
Khổ là sự thật thứ nhất,
khổ tập là sự thật thứ hai, khổ tập diệt là sự thật thứ ba. Diệt ở đây là sự
chuyển hoá, sự tiêu diệt những nguyên nhân đưa tới khổ, sự vắng mặt của nếp sống
tà đạo. Sự vắng mặt của tập cũng đồng thời là sự vắng mặt của khổ. Đây là sự
tiêu diệt tận gốc rễ. Sự thật thứ ba, diệt, xác nhận rằng ta có thể chuyển hoá
được nếp sống này. Điều đó chứng tỏ rằng chúng ta có tự do ý chí.
Với chánh niệm ta sẽ
đi tới chánh định và với chánh niệm và chánh định ta sẽ đạt tới chánh kiến.
Theo đạo Bụt thì rõ ràng là con người có tự do ý chí. Chánh niệm trong bước
chân và hơi thở là một sự thực tập rất cụ thể để chấm dứt sự trôi lăn, để nuôi
lớn tự do. Sự thật thứ ba (khổ tập diệt) được cụ thể hoá bằng sự thật thứ tư:
khổ tập diệt đạo. Có sự thật thứ tư thì ta thấy sự thật thứ ba có chân đứng. Sự
thật thứ tư là khổ tập diệt đạo. Khổ tập diệt đạo là con đường đưa tới sự chuyển
hoá, đưa tới sự tiêu diệt nguyên nhân của khổ đau. Thực tập con đường Bát
chánh, ta sẽ đạt tới tự do và nhổ được gốc rễ của khổ đau.
Chánh Niệm Là Dây Cương
Có một người hay nổi
giận khi nghe người khác nói những điều không vừa tai. Những lúc ấy anh không
làm chủ được mình, để rồi sau đó thì hối hận, tự buồn, tự trách mình là tại sao
biết rằng nói như vậy, làm như vậy sẽ không đẹp mà vẫn nói, vẫn làm. Đó là bởi
vì không cưỡng lại được thói quen, ngựa theo lối cũ. Thấy vậy, một người bạn muốn
giúp anh ta. Người bạn nói: "Hôm nay đi họp mình sẽ ngồi cạnh bạn, mình sẽ
cầm tay bạn trong suốt buổi họp. Và nếu khi người ta nói những câu tưới hạt giống
giận trong bạn, mình sẽ xiết chặt lấy bàn tay bạn, khi ấy bạn phải trở về với
hơi thở và mỉm cười, mặc cho họ có nói gì." Hôm ấy anh ta đã không bùng nổ
như mọi lần. Đó là do sự can thiệp của chánh niệm. Người bạn phải xiết tay anh
bởi vì chánh niệm trong anh còn yếu. Nhưng sau vài lần có mặt của người bạn thì
chánh niệm trong anh được nuôi lớn và từ đó anh không cần người bạn ngồi bên cạnh
mình trong mỗi buổi họp nữa. Điều đó chứng tỏ rằng không gian trong anh đang lớn
dần lên, anh bắt đầu có tự do trong các buổi họp. Điều này có được là do đâu vậy?
Do chánh niệm. Đây là đầu dây mối nhợ. Nếu ta nắm được cái đó, ta sẽ có tự do.
Bốn sự thật hay Tám con đường là sự đúc kết từ kinh nghiệm thực
tập, chúng không đến từ một đấng Thượng đế, và cũng không phải do một tự viện đề
ra. Bốn sự thật là một sự kiện đạo đức có thể được chấp nhận bởi bất cứ ai. Dù
là Phật tử hay không phải là Phật tử thì đó cũng vẫn là sự thật. Dù ta có tin
vào Bụt hay không tin vào Bụt thì đó cũng là sự thật.
Ngay trong bài thuyết
pháp đầu tiên của mình, đức Thích Ca đã đề ra một nền đạo đức, một con đường.
Nó rất thiết thực và không có tính siêu hình. Nó đưa chúng ta trở về với thực
trạng của chính bản thân để mà hiểu, để mà thấy được con đường giúp ta chuyển
hóa. Con đường này không dùng để suy nghĩ mà phải đem ra áp dụng. Mà hễ áp dụng
thì sẽ có kết quả.
Xem Tiếp Chương 3 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá