Chương 11. Bốn Phương Pháp Nghiên Cứu, Sưu Tầm, Quán Chiếu

Chương 11. Bốn Phương Pháp Nghiên Cứu, Sưu Tầm, Quán Chiếu

Read more

Thích Nhất Hạnh Podcourse by Vô Ngã

Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.


Con Đã Có Đường Đi

Con Đường Của Phật

Những đóng góp của đạo Phật cho một nền đạo đức toàn cầu

Chương 11. Bốn Phương Pháp Nghiên Cứu, Sưu Tầm, Quán Chiếu



Nghe hoặc Tải MP3 Tác Phẩm 'Con Đã Có Đường Đi' ê


Bụt Và Chúng Sinh Không Phải Là Hai

Chúng ta đã từng nói tới cái gọi là Phật sinh bất nhị, tức là Bụt vàchúng sinh không phải là hai thực thể riêng biệt. Cái này có dính líutới ngữ nghĩa học. Khi nói tới Bụt thì chúng ta hình dung Bụt như mộtthực tại đối lập với chúng sinh. Vì chúng sinh là mê mờ, là trầm luân,là khổ đau; còn Bụt là sáng suốt, là trí tuệ, là từ bi. Hai cái đó tráingược nhau, giống như tay trái với tay phải. Do đó khi nói Phật sinhbất nhị là chúng ta bắt đầu đặt vấn đề Bụt là cái gì? Chúng sinh là cáigì? Hai cái đó là hai cái như thế nào mà mình gọi chúng không phảilà hai. Ta phải có một cái thấy rõ ràng về Bụt và chúng sinh. Và trongkhi quán chiếu thì ta thấy rằng giữa Bụt và chúng sinh có một liên hệmật thiết. Tức là ngoài chúng sinh không thể nào có Bụt được. Và hễlà chúng sinh thì có giác tánh ở trong. Chỉ khi nào hiểu được điều đóthì mới hiểu Bụt là cái gì, chúng sinh là cái gì. Hễ là Bụt tức là từchúng sinh mà ra, hễ là chúng sinh thì thế nào cũng thành Bụt, đó gọilà Phật sinh bất nhị.

Đứng về phương diện Thượng đế cũng phải như vậy. Thượng đếthường được gọi là tạo hoá (The Creator). Và con người cũng như thếgiới được gọi là tạo vật. Tạo vật tức là cái được tạo ra. Có sự liên hệ gìgiữa tạo hoá và tạo vật? Nếu không có gì liên hệ thì làm sao tạo hóa cóthể tạo ra được tạo vật, phải có một liên hệ nào đó chứ? Ví dụ ngườithợ mộc là tạo hóa, còn chiếc bàn là tạo vật, thì người thợ mộc vàchiếc bàn đương nhiên là có mối liên hệ với nhau. Như vậy nếu nóiThượng đế là một thực tại hoàn toàn tách biệt khỏi thế giới do chínhThượng đế tạo ra tức là mình không thấy được vấn đề. Cho nên cái ýniệm của ta về Thượng đế (tạo hóa) bị sai lạc, mà cái ý niệm của ta vềtạo vật cũng sai lạc, vì ta tưởng tạo hóa và tạo vật, Thượng Đế và thếgiới là hai thực thể nằm ngoài nhau.

Đạo Bụt rất cẩn trọng. Ở trongtruyền thống Duy Biểu Học có phép quán gọi là “Tứ Tầm Tư”. TứTầm Tư tức là bốn phương pháp nghiên cứu, sưu tầm, quán chiếu.

1. Danh Tầm Tư

Danh là tên gọi, một cái tên dùng để chỉ một vật gọi là "năng thuyên".Bụt là một tên gọi, chúng sinh là một tên gọi, Niết bàn là một tên gọi,thiện là một tên gọi, ác là một tên gọi. Trước hết mình phải nghiêncứu về danh từ đó, nó thuộc về phạm vi ngữ nghĩa (semantic), đểthấy rằng nhiều khi đó chỉ là một cái giả danh thôi mà không phải làsự thật.

Muốn đi sâu vào nền đạo đức học Phật giáo thì phải có nhiều côngphu, dù cho nghiên cứu về Năm Giới cũng vậy. Ví dụ như trong bàitập “để Bụt thở, để Bụt ngồi, mình khỏi thở, mình khỏi ngồi.” Khi bắt đầubài thực tập đó, chúng ta thấy Bụt và mình như là hai thực thể riêngbiệt. Nhưng Bụt chỉ là một danh từ, và mình cũng chỉ là một danh từ.

Cả hai danh từ đó đều là những giả danh hết. Cái này thâm sâu lắm,trước hết nó thuộc về ngữ nghĩa học, sau đó nó đi sâu vào bản thểhọc. Ban đầu thì mình thấy có hai. Mình thì lười biếng thở, lười biếngngồi thiền. Nhưng Bụt thì lại rất thích thở và thích ngồi thiền. Vì vậycho nên mình “để Bụt thở, để Bụt ngồi, mình khỏi thở, mình khỏi ngồi”. Và“Bụt đang thở, Bụt đang ngồi”. Bụt thở rất là đều, rất là nhẹ. Bụt ngồirất là thẳng. Trong khi Bụt đang ngồi như vậy thì mình cũng được ké,mình cũng được thở, mình cũng được ngồi. Ban đầu thì mình nói “ĐểBụt thở, để Bụt ngồi”, mình làm biếng, “mình khỏi thở, mình khỏi ngồi”.Ai dè khi thấy Bụt ngồi đẹp quá mình được hưởng thì mình nói: “Bụtđang thở, Bụt đang ngồi, mình được thở, mình được ngồi.”

Trong hai câu đầu đó của bài kệ thì Bụt là khác, mình là khác. Bụt làmột thực thể riêng biệt, mình là một thực thể riêng biệt. Rồi tới câuthứ ba, “Bụt là thở, Bụt là ngồi, mình là thở, mình là ngồi.” (The Buddhais the breathing itself). Bụt chính là hơi thở đó và khi Bụt thở thì hơithở của Bụt có phẩm chất rất cao, hơi thở rất nhẹ, rất an lạc. Và chínhhơi thở nhẹ và an lạc đó là Bụt. Đi tìm Bụt ở ngoài hơi thở nhẹ và anlạc đó thì sẽ không thấy đâu. Thành ra khi đi tìm sự thật mình có thểbị kẹt vào một danh từ, một giả danh.

Nếu ta may mắn tìm được sự thật, cái sự thật đó được gọi là Sự hay làNghĩa. Đây là Bụt, và đây là hơi thở của Bụt. Khi Bụt bước chân đi, thìbước chân của Bụt nhẹ nhàng, thảnh thơi, vững chãi, hạnh phúc. Vàta nhận ra Bụt nơi bước chân đó. Ngoài bước chân đó, không có Bụt.

Nếu quý vị thực tập bài này cho khéo thì quý vị thấy Bụt đang ngồirất thẳng, Bụt đang thở rất nhẹ. Ta nhận ra Bụt trong thế ngồi đó,trong hơi thở đó, chứ ngoài ra không có Bụt; ngoài hơi thở nhiệm mầu,ngoài thế ngồi vững chãi đó, làm gì có Bụt nữa. Bụt là thở, Bụt là ngồi,mình là thở, mình là ngồi. Mình đừng có tưởng rằng ngoài hơi thở vàngoài cái thế ngồi này, còn có cái mình ở ngoài.

Thành ra từ câu thứ ba trở đi là ta bắt đầu nhờ ngữ nghĩa học, nhờquán chiếu Danh Tầm Tư mà đi tới sự thật. Tại sao ta nhận ra đượcBụt? Ta nhận ra được Bụt là tại hơi thở của Ngài, cái dáng đi củaNgài, cái thế ngồi và lòng từ bi của Ngài. Ngoài những cái đó, làm gìcó Bụt nữa? Mà sự thật là như vậy! Làm gì có Bụt ngoài những cáiđó? Bụt chỉ là những cái đó thôi. Cũng như đám mây làm gì có ởngoài những giọt nước nhỏ li ti? Lấy đi tất cả những giọt nước nhỏ liti thì làm gì còn có đám mây nữa? Bụt cũng vậy, Bụt chỉ là một giảdanh!

Nhìn kỹ vào chiếc áo ta thấy có mảnh vải, sợi chỉ, cái khuy, người thợdệt, người thợ may… Ngoài những cái ấy ra thì không có chiếc áo.Chiếc áo là một giả danh. Ta đi tìm một chiếc áo ngoài những đườngkim mũi chỉ, ngoài vải, ngoài người may áo thì không tài nào tìmđược. Vì vậy cái áo là một giả danh. Nếu buông bỏ được danh từ, ta sẽtìm được sự thật.

Ta đi tìm chính mình cũng vậy, ta là Hương, là Tuấn. Hương, hayTuấn là ai? Ta phải bỏ cái giả danh đó đi để đi tìm sự thật của Tuấn,của Hương. Những cái sắc, cái thọ, cái tưởng đó làm nên cái người gọilà Tuấn, là Hương.

Bụt cũng vậy. Bụt từ những yếu tố không phải Bụtmà ra. Bụt từ chúng sinh mà ra. Ta phải khéo léo để nhận ra Bụt tronghơi thở, trong thế ngồi, trong cách tiếp xử chứ đừng có tìm Bụt ởngoài những cái đó. Cách Ngài thở, cách Ngài ngồi, cách Ngài đi, cáchNgài mỉm cười, cách Ngài xử sự, đó chính là Bụt. Đừng có đi tìm Bụtngoài những cái ấy.

Điều này rất khoa học, rất dễ hiểu. Bụt là thở, Bụtlà ngồi. Đi tìm chi nữa? Mình là thở, mình là ngồi, mình đi tìm mìnhđó. Ngoài bước chân, ngoài hơi thở của ta thì đâu còn gì nữa?Câu thứ ba đưa ta tới sự thật, giúp ta vượt thoát cái gọi là giả danh.

Thường thường chúng ta bị kẹt vào giả danh rất nhiều. Cho nên mônhọc này giúp ta đừng bị kẹt vào danh từ, vào tên gọi. Và nền triết họcnày lấy cảm hứng từ một nền triết học gọi là Chủ nghĩa thực chứng luậnlý, logical positivism. Khởi xướng là August Conter, ông đặt ra nhữngcâu hỏi rất là thực tế. Quý vị nói thiện, vậy thế nào là thiện? Quý vịnói ác, vậy thế nào là ác? Quý vị đừng có chơi với danh từ, đừng cólàm cho người ta kẹt vào danh từ. Phải đi đến cái từ What do youmean? Cái đó gọi là ngữ nghĩa học. Trongđạo Bụt cái này rất quan trọng. Đạo Bụt nói rằng tất cả những danh từnhư là: tôi, bạn, Bụt và chúng sinh đều là những giả danh. Và ta đừngbị kẹt vào những giả danh đó.

Trong Tứ Tầm Tư, ta phải buông bỏ cái tên để tìm tới sự thật. Rồi rútcuộc, ta cũng phải buông bỏ cái mà ta gọi là sự thật. Rời bỏ danh từ đểđi tìm tới tự tánh, tự tánh tức là bản chất. Ta rời bỏ danh từ chiếc áođể đi tới bản chất của chiếc áo. Nhưng mà chính miếng vải, đườngkim, mũi chỉ… tất cả những cái này cũng vẫn là giả danh, ta cũngphải đi tìm cái bản chất của nó. Vải cũng được làm bằng những chấtliệu không phải là vải.

Ban đầu thấy sợi dây thừng, ta tưởng là con rắn, rồi đâm ra hoảng sợ.Nhưng sau khi hoàn hồn ta thấy đó không phải là con rắn, tức thì lúcấy, ta "thả" được con rắn ra. Nhưng sợi dây thừng nhìn cho kỹ cũng làgiả danh. Vì sợi dây thừng đó cũng chỉ có chất gai thôi, một cái thứcây mà người ta bện lại thành sợi dây. Cây gai được những ngườinông dân trồng, rồi họ đem cắt ra, giã nát, se lại thành sợi dây thừng.

Nhìn vào sợi dây thừng thì chỉ thấy chất gai thôi. Vì vậy dây thừngcũng là giả danh. Và cứ từ từ như vậy, ta đi tìm tới được cái bản chấtđích thực của sự vật. Cái đó gọi là tự tánh. Mỗi sự vật đều có tự tánh.Nhưng tự tánh của chúng đều là không.

Như là bông hoa chẳng hạn,nó là một giả danh. Nhìn cho kỹ thì trong bông hoa chỉ có ánh sang mặt trời, có đất, có đám mây, có mưa, có hạt giống, có người làmvườn... Ngoài những cái đó ra thì không có hoa. Cái đó là từ Danh màđi tới Sự.

Bây giờ từ Sự đi tới Bản chất. Tức là đi tìm cái bản chất của nó. Và Tâyphương có những nền triết học, họ cho Thượng đế là bản chất củathực tại (God is the ground of being). Đó là Ontological ground ofbeing. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, ta được học rằng bản chất của vạnvật là không.


Chữ Không trong đạo Bụt có nghĩa rất thâm sâu. Chữ Không này không có nghĩa là cái không ngược lại với cái có. Cái Không này là sự vắng mặt của cả hai: cái có và cái không. Nó siêu việt ra khỏi có và không. Trong đạo Bụt ta có thể gọi cái Không đó là bản thể, bản chất, là tự tánh. Tự tánh là Không. Nói tới Không, nghĩa là vượt thoát những cặp đối nghịch: không sanh cũng không diệt, không dơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt, không có cũng không không. Đó là cái thấy của đạo Bụt về vấn đề tự tánh. Có khi mình gọi đó là Niết Bàn, có khi ta gọi là Chân Như, có khi gọi là Không.

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh


Và cái đó là nền tảng của tất cả. Siêu đạo đức học muốn tìm tới cái gốcđó.Ở phương Đông có khái niệm đạo là bản thể, là tự tánh của vạn sựvạn vật. Một điều rất dễ thương, rất hay là trong khi phương Tây coiThượng đế là đàn ông thì ở phương Đông coi Thượng đế, coi Đạo làđàn bà, là một người Mẹ. Đạo là Mẹ của vạn vật, là Mẹ của trời đấtchứ không phải là Đạo là Cha. Hai văn hoá có tư duy khác nhau. Ởtrong văn hoá Cơ Đốc giáo mình thấy God (Thượng đế) như là tựtánh của vạn hữu. Mà nếu đã là tự tánh thì giữa tạo hoá và tạo vậtphải có liên hệ. Nếu tìm ra được tạo vật sẽ thấy tạo hoá ngay trong tạovật. Còn nếu mang cái nhìn nhị nguyên mà nói tạo hoá khác tạo vậtthì người ta không thể nào hiểu được.

Lão Tử là một người sinh ravào khoảng thời gian đồng thời với Đức Thích Ca. Ở trong Đạo đứckinh của Lão Tử có một câu như thế này:

“Có một cái vật nó do sự trộn lẫn với nhau mà thành, nó sinh ra trước khi cótrời và đất, nó rất là yên tĩnh, vắng lặng. Nó đi khắp nơi mà không mỏi. Tôikhông biết tên của nó, tôi tạm gọi nó là đạo. Và tôi không thể diễn tả được nó,tôi tạm gọi nó là lớn. Nó có thể coi là mẹ của cả trời và đất.”

Nguyên văn chứ Hán như sau: “Hữu vật hỗn thành. Tiên thiên địa sinh.Tịch hề liêu hề. Độc lập nhi bất cải. Chu hằng nhi bất đãi. Ngô bất tri kỳdanh. Tự chi viết đạo. Tự chi viết đại. Khả dĩ vi thiên địa mẫu.”

Ở trong đạo Bụt điều này rất rõ ràng. Tìm Bụt ở đâu? Tìm ngay nơichúng sinh. Nếu cùng một cách nhìn đó, thì tìm Thượng đế ở đâu?Tìm Thượng đế ở nơi chính bản thân mình. Mà trong Cơ Đốc giáocũng có hạt giống của tuệ giác đó: “God is in our heart.” (Thượng đếnằm trong trái tim chúng ta.)

Để vượt thoát được cái nhìn lưỡng nguyên giữa ngữ nghĩa học và bảnthể học, ta có một phương pháp gọi là nhận thức luận. Vấn đề nhậnthức luận đặt ra là cái bản thể đó có nằm trong khả năng nhận thứccủa con người hay không? Thành ra chia ra làm hai khuynh hướng.Một là có thể nhận thức được, hai là không thể nhận thức được. Trongngôn ngữ nhà thiền nói rằng: “Giáo ngoại biệt truyền. Bất lập văn tự.Trực chỉ nhân tâm. Kiến tánh thành Phật.” Giáo ngoại biệt truyền tức làđược trao truyền lại ngoài những sự giảng dạy không căn cứ trênngôn ngữ và văn tự. Bất lập văn tự tức là không thể dùng danh từ đểdiễn tả được. Trực chỉ nhân tâm tức là chỉ thẳng vào trái tim của conngười. Kiến tánh thành Phật tức là thấy được bản chất, thấy được cái tựtánh để thành Phật. Thiền là như vậy.

Bản chất của thiền tông là không bị kẹt vào ngôn ngữ, không bị kẹtvào danh từ. Dù là danh từ Bụt, danh từ Pháp. Khi đi học đạo trướchết ta rất muốn hiểu Bụt là cái gì, Pháp là cái gì, Tăng là cái gì. Khingười ta cho mình một cái nghĩa thế nào là Bụt, thế nào là Pháp, thếnào là Tăng, mình liền bị kẹt vào những giả danh ấy. Bụt trong ý niệmcủa ta chỉ là giả danh thôi. Và hàng ngày ta sống, ta lạy, ta cầu nguyệnvới một cái giả danh. Vì vậy cho nên bất lập văn tự tức là thoát khỏinhững danh từ, thoát khỏi những chữ nghĩa. Vì chữ nghĩa chỉ làm chota lún sâu vào trong cái vũng bùn, trong cái mê lộ của danh từ, vào đórồi thì đi ra không được nữa. Vì vậy cho nên khi sử dụng các danh từta phải rất cẩn thận. Dù là thiền sư hay thiền sinh cũng phải cẩn thậnlắm, nếu không thì cả thầy lẫn trò đều bị kẹt hết.

Ngày xưa có một người tới hỏi Tuệ Trung Thượng Sỹ: “Pháp thânthanh tịnh nghĩa là sao?”. Tại vì thường ngày cúng cơm, mình nói là“cúng dường Thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật”. Pháp thânthanh tịnh là gì? Theo nguyên tắc, Pháp thân là bản thể, là cái siêu việtra khỏi những ý niệm thanh tịnh với không thanh tịnh, không nhơcũng không sạch nên nói Pháp thân là sạch thì trật rồi. Vì vậy TuệTrung Thượng Sỹ đã nói: “Pháp thân thanh tịnh hả? Pháp thân thanhtịnh là cái vũng nước tiểu đó”, để cho người ta thoát ra khỏi cái danhtừ “thanh tịnh.”

Có lần một vị thiền sư, khi khai thị cho đại chúng, nói rằng: “Này quývị, tôi rất là dị ứng với danh từ Bụt. Tôi dị ứng với danh từ Bụt lắm. Bất đắcdĩ tôi mới dùng từ Bụt thôi. Chữ đó nó gây ra rất nhiều hiểu lầm. Vì vậy chonên mỗi khi phải mở miệng dùng chữ Bụt thì tôi phải đi súc miệng ba lần đểcho sạch cái miệng của tôi.” Ông ta nói dữ vậy đó. Đó là cái cách củathiền sư nói chuyện. Mục đích là để cho người nghe đừng dính vàomột cái giả danh. “Tôi rất dị ứng với danh từ Bụt. Mỗi khi phải dùng cáidanh từ đó, tôi phải đi súc miệng ba lần thì mới chịu nổi.” Bữa đó người tabị sốc nhiều lắm. Giống như Bụt là cái gì nhơ nhớp lắm vậy. Khi ấy cómột đệ tử đưa tay lên nói: “Con cũng vậy, mỗi khi con nghe thầy nói chữBụt, con phải ra bờ sông con rửa lỗ tai ba lần con mới chịu nổi.” Chuyệnnày cho ta thấy rằng thầy đó, đệ tử đó thoát ra được khỏi danh từ,không bị kẹt vào danh từ nữa. Còn kẹt vào danh từ là còn khổ.

Thiền là một truyền thống, trong đó ta muốn tiếp cận sự thật màkhông bị kẹt vào danh từ nhiều. Vì vậy cho nên vấn đề đặt ra là đừngđể mình bị kẹt vào những chữ nghĩa mình dùng. Và vấn đề cũng đặtra là những cái đó, ta có thể dùng trí năng mà đạt tới được hay không?Hay là phải dùng tới một cái trực giác nào đó, một trí tuệ nào đó thìmới chạm tới được? Cái đó thuộc phạm vi của nhận thức luận. Trongđạo Bụt có một cái trí tuệ gọi là vô phân biệt trí. Khi sử dụng được cáivô phân biệt đó thì không còn cái thấy nhị nguyên nữa. Ví dụ nhưchủ thể và đối tượng, hai cái không phải là hai thực tại nằm ngoàinhau nữa, mà chủ thể và đối tượng nương nhau mà có, mà biểu hiện.

Bụt và chúng sinh, sinh và diệt, trái và phải cũng vậy. Khi đã có đượccái thấy tương tức, cái thấy tương quan, tương duyên rồi thì tự nhiênvượt thoát cái lề thói nhị nguyên và lúc đó mới bắt đầu tiếp cận với sựthật.

Có một triết gia, gần như một nhà đạo học, tên là Trang Tử. Trang Tửcòn đi xa hơn Lão Tử. Trang Tử nói rằng Trời Đất với mình nươngvào nhau mà biểu hiện ra: “Thiên địa dữ ngã tịnh sinh. Vạn vật dữ ngãđồng nhất.” Tức là trời đất với mình nương vào nhau cùng biểu hiệnra, vạn vật với ta là một. Không có ta thì không có trời đất và khôngcó trời đất thì cũng không có ta. Cái thấy đó rất gần với cái thấy tươngtức.

Cái ngã ở đây có thể gọi là chủ thể, mà thiên địa có thể là đối tượng.Chủ thể và đối tượng cùng phát hiện một lần, tịnh sinh. Vạn vật tức làtất cả các hiện tượng như: núi sông, cây cỏ, trăng sao với ta là đồngnhất, ta đồng nhất với vạn vật, chứ ta với vạn vật không phải là haithực tại riêng biệt. Ta không phải là chủ thể nhận thức và vạn vậtkhông phải là đối tượng nhận thức. Đối tượng nhận thức và chủ thểnhận thức nương vào nhau để phát hiện cùng một lần. Vì vậy nhìn cáikia, ta phải thấy ta và nhìn vào mình ta phải thấy cái kia. Tức là khôngcó cái nhìn khách quan nữa. Cái thấy của Trang Tử rất gần với cáithấy của đạo Bụt. Ở ngoài đời, khi nói về đạo đức học, họ đã đi rấtsâu. Họ đi sâu vào phạm vi ngữ nghĩa học, nhận thức luận và bản thểhọc trong đạo Bụt.

Nền tảng của giới rất là sâu. Nếu ta không học về những giả danh thìta chưa thể nắm vững được giới. Và nếu ta không đạt tới những cáinày thì ta sẽ bị kẹt vào những danh từ trong giới.

2. Nghĩa Tầm Tư

Phép tầm tư thứ hai là tầm tư nghĩa, hay là sự, nó là sở thuyên. Khi vịBồ tát nhìn thì vị Bồ tát nhìn vào sở thuyên chứ không cần nghĩ tớidanh từ. Bây giờ hoàn toàn ta không bị lệ thuộc vào danh từ, ta đi tìmtới cái vật đó. Ví dụ như danh từ ba hay là mẹ. Bây giờ ta bỏ danh từ,mà nhìn vào ngũ uẩn. Danh từ như là tôi, anh hay ba má hay là conhay là chị đều là những năng thuyên.

Bây giờ bỏ hết những cái đó và nhìn vào sự thật thì thấy rằng ta đangtiếp xúc với năm uẩn của người ấy. Có thể nhìn vào năm uẩn củamình, nhìn vào năm uẩn của cha mình, ta thấy rất là giống nhau. Vàthấy rõ ràng rằng mình là sự tiếp nối của cha mình. Vì vậy cho nêngọi cái đó là cha chắc cũng được, gọi cái đó là con chắc cũng được,giống nhau quá. Vì vậy hai chữ con và cha làm chia cách. Trên bề mặtthì con không phải là cha, cha không phải là con, nhưng trên sự thựccon là sự tiếp nối của cha và cha là sự trao truyền của con. Cho nên bịkẹt vào năng thuyên là không tốt. Vị Bồ tát nhìn vào sự vật thì khôngthấy danh từ đâu hết, chỉ thấy sự vật mà thôi. Vì vậy khi nhìn vào toạcụ chỉ thấy vải, bông gòn, đường kim mũi chỉ. Sự thật là chỉ có tất cảnhững cái đó.

3. Tự Tánh Tầm Tư

Tự tánh tức là Svabhàva. Khi nhìn vào đợt song, ta thấy bản chất củađợt sóng là nước. Khi chúng ta quán sát cây cối, nhà cửa, đất đá, conngười, cầm thú, thì chúng ta muốn biết cái gì là bản chất của tất cảnhững cái đó. Chúng ta đi tìm cái bản thể của chúng. Từ ngày xưa, người ta đã nghĩ rằng bản thể của sự vật là nguyên tử (atom). Cóngười nói cái bản thể đó là Thượng đế, có người nói cái bản thể đó làđạo, có người nói cái bản thể đó là tứ đại. Có nhiều người đưa ranhững ý kiến khác nhau về bản thể của sự vật. Các nhà khoa học đikiếm nền tảng của sự vật ở nơi các nguyên tử, những chất điểm sơkhởi thì giống như là họ đi tìm nền tảng bản thể cho những sự vật ấy.Và khoa học đang gõ cửa bản thể học. Ở đây cũng vậy. Ta thấy sự vật,và ta cũng muốn đi tìm cái bản chất của sự vật ấy. Chúng ta có niềmtin là tất cả mọi sự vật đều có bản thể của nó.

Sáng nay các thầy, cácsư cô có tụng Bát Nhã Tâm Kinh. Tâm kinh cũng là một văn bản vềbản thể.Trong Tâm kinh nói: "Khi Bồ tát Quán Tự Tại quán chiếu về năm uẩnthì thấy rằng bản chất của chúng là không." Và cái nền tảng, bản thểcủa năm uẩn là không. Vì vậy cho nên Tâm kinh nói mọi vật đềukhông có tự tính riêng biệt. Cũng như cái gối ngồi thiền này. Nếu đitìm cái bản chất của nó thì không thấy có bản chất gì hết. Nó đượclàm bằng vải, nó được làm bằng bông gòn, nó được làm bằng đườngkim mũi chỉ và công khâu vá của các sư cô... Ngoài những cái đó rathì không có cái gì hết. Không, không phải là không có gì mà Không tứclà không có một tự tánh riêng biệt. Vì vậy cho nên trong đạo Bụt, cókhi nó được gọi là Vô Tánh.

Ví dụ nhìn thấy bông hoa rất đẹp và ta muốn đi tìm tự tánh của nó.Ta có thể nói tự tánh của nó là Thượng Đế hay tự tánh của nó làkhông. Sự thực thì cũng không có gì rắc rối lắm. Nhìn cho kỹ thì thấyrất nhiều yếu tố đã tới với nhau để làm cho bông hoa biểu hiện. Đó làhạt giống, là đất, là nắng, là mưa, là người làm vườn... Tất cả nhữngcái đó tới với nhau làm nên bông hoa. Ngoài những cái đó, như đất,mặt trời, hạt giống, cơn mưa, mà đi tìm bản chất của bông hoa khôngthôi thì không có. Bông hoa không có cái nền tảng, bản thể nào hếtngoài những cái đó. Hoa chỉ được làm bằng những cái không phải làhoa. Đó là cái cách nói ở Làng Mai. Cái đó gọi là vô tánh.

Khi tìm hiểu tới cái tầm tư thứ ba này rồi thì ta bắt đầu chạm tới sựthật. Ta nói ta là hình thể này, ta là Hương, là Ngọc, nhưng khi đi tìmbản chất của Ngọc, của Hương, thì ta thấy rằng Ngọc được làm bằngnhững yếu tố không phải là Ngọc, và tự tánh của ta, Ngọc, là không.

Khi ta chứng đạt cái đó thì ta rất là khoẻ, không có lo lắng, sợ hãi gìhết. Tự tánh của ta là không nhưng mà cái không này không phải là cáikhông ngược với cái có. Tại vì trong Tâm kinh nói “sắc tức thị không”nhưng mà "không tức thị sắc". Hay vậy đó. Tự tánh của nó là không.

Cái hoa thì không có thật, nó không có thực thể, nhưng mà những yếutố làm ra bông hoa thì có chứ? Khi ta nhìn vào bông hoa thì ta thấybông hoa được làm bằng những yếu tố không phải hoa. Vì vậy chonên hoa không có thực thể. Nhưng mà những cái làm ra hoa như: hạtgiống, nước, ánh sáng mặt trời, đất… là có thật hay không? Do đómình mới cần phải đi tới cái Tầm Tư thứ tư, tức là sai biệt giả lập tầmtư.

4. Sai Biệt Giả Lập Tầm Tư

Sai biệt tức là những cái khác nhau. Bông hoa, tự tánh của nó vốnkhông có, nhưng mà đất, nước, hạt giống thì có. Bây giờ chúng ta tiếptục nhìn vào nước, khi quán chiếu về nước thì thấy nước cũng đượclàm bằng những cái không phải là nước. Mây cũng được làm bằngnhững cái không phải là mây. Cái gì cũng vậy hết. Khoa học lượng tửbây giờ cũng đạt đến cái thấy đó. Ban đầu họ đi tìm những chất điểm,những hạt nguyên tử, tưởng chúng là bản chất nhưng chính chúngcũng phải nương vào nhau mà thành. Nó cũng giống như là tay tráivà tay phải. Tay trái là cái gì? Có thật không? Hình như là có thật. Rõràng là mình có tay trái, phía bên tay trái mình là có thật. Và tay phảicũng vậy, là có thật. Nhưng sự thật là không có tay trái thì cũngkhông có tay phải, không có bên trái thì cũng không có bên phải. Đâylà một ví dụ rất đơn sơ, tay trái nó chỉ có thể có mặt được nếu có tayphải. Một sự thực rất là khoa học, ai cũng phải công nhận. Đức ThếTôn trong kinh đã nói tới chân lý này bằng những lời hết sức là đơngiản. Ngài nói rằng là “cái này có vì cái kia có.” Hết sức là đơn sơ.Nếu mình hỏi cái này có trước hay là cái kia có trước, thì đó là mộtcâu hỏi sai. Nó vốn vượt thoát thời gian. Nếu cái này có trước đượcthì đâu cần phải nhờ cái kia mà có? Chính hai cái nương nhau mà có.Những cái điện tử dương và những cái điện tử âm cũng vậy chúngkhông thể có mặt độc lập với nhau được. Cái này có vì cái kia có. Phảivà trái cũng vậy, không có phải thì không có trái, ngược lại không cótrái thì cũng không thể có phải được. Vì vậy không thể đi tìm bản chấtcủa bông hoa được.Tới phép Tầm Tư thứ tư là sai biệt giả lập cũng thấy giống hệt như baphép tầm tư kia tức là không có tự tánh. Nó cũng là giả lập hết.

Những danh từ mà chúng ta dùng đều là những giả danh. Những sựvật mà chúng ta thấy và chúng ta nhận thức cũng vậy. Mà cái ta gọi làtự tánh cũng là giả danh. Cái mà chúng ta gọi là sai biệt cũng giảdanh. Trái và phải cũng vậy, chúng nương nhau mà có. Bản chất củatrái là không , bản chất của phải cũng là "không". Nhưng không, ởđây, không phải là không có bàn tay, mà là bàn tay không có một thựcthể riêng biệt, nhờ nương vào những cái khác mà bàn tay được biểuhiện. Cái đó gọi là duyên sinh. Đây là một phép quán rất quan trọngtrong trường phái gọi là Duy Biểu Học.

Trong đạo Bụt có nhiều trường phái, có trường phái chú trọng về cáitánh, nổi bật nhất là tánh không, tức là trường phái Bát Nhã. Lại cótrường phái đối lập chuyên nói về cái tướng, nó nghiên cứu về phầnhiện tượng như sắc, thọ, tưởng, hành, thức và thấy rõ tất cả đều dotâm thức biểu hiện. Trường phái ấy gọi là Duy Thức, Duy Biểu hayPháp Tướng tông.

Thường thì người ta nghiên cứu riêng biệt, khi nghiên cứu về tánh thìchỉ nói về tánh, khi nghiên cứu về tướng thì chỉ nói về tướng màkhông lẫn lộn giữa hai cái. Ví dụ khi nói về vũ trụ vạn hữu và nghiêncứu về vũ trụ vạn hữu là ta đang đứng về pháp tướng.

Khi nói tới Thượng đế thì không thể đặt Thượng đế trên cùng bìnhdiện với hiện tượng được, tại vì Thượng đế phải coi như là cái nềntảng của mọi hiện tượng, là bản thể. Vì vậy cho nên không thể dung những phương pháp, những danh từ mà mình sử dụng trong khinghiên cứu hiện tượng để mà nói về bản thể được, phải tách riêng ra.Cái đó trong đạo Bụt gọi là Tánh Tướng Biệt Quán. Thành ra khi mìnhnói liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng thì đừng có đem Thượng đếvào, tại vì Thượng đế thuộc về tánh.

Khi nói về Thượng đế thì không được đưa luật nhân quả của thế giớihiện tượng vào, là tánh tướng biệt quán. Cũng như khi nói tới sóng thì có thể nói sóng lên xuống, cao thấp, lớn bé, đẹp xấu. Nhưng khinói tới nước thì những danh từ như lên xuống, cao thấp, lớn bé khôngthể dùng được nữa. Những danh từ, những tính từ diễn tả sóng không có thể đem để diễn tả nước được. Những cái mà mình nói vềthế giới tạo vật không thể nào đem áp dụng cho Thượng đế tức là tạohoá được. Nhưng mà trong đạo Bụt có một sự móc nối giữa tánh vàtướng. Ban đầu mình nghiên cứu về tướng, về thế giới hiện tượng;mình nghiên cứu về năm uẩn; mình phân biệt, nghiên cứu, đi sâu vàonăm uẩn, nghiên cứu về cái sai biệt. Rồi từ cái sai biệt mình có cơ hộiđi vào tánh, đi vào bản thể.

Một ví dụ khác là khi nhìn vào bông hoa, ban đầu ta nghiên cứu vềnhững yếu tố làm nên bông hoa như mặt trời, đám mây, đất, hạtgiống, người trồng hoa… Đó là ta đang nghiên cứu về phương diệnhiện tượng, về tướng. Nhưng nhìn kỹ một hồi tự nhiên ta gặp tánh.Ta thấy rằng bông hoa nó không có tự tánh, mà những yếu tố làm rahoa nhìn cho kỹ thì cũng không có tự tánh. Nguyên tắc đó gọi là TùngTướng Nhập Tánh. Đây là những điều rất quan trọng trong nền đạo đứchọc Phật giáo. Chúng là những điều căn bản thuộc về lĩnh vực siêuđạo đức học.

Vậy thì ta áp dụng như thế nào? Giả sử như khi nói về thiện và ác,chính và tà, thì trước hết ta nói thiện là một danh từ (tầm tư danh) chỉcho một số các việc. Tiếp đó thì ta đi tới cái Tầm Tư thứ hai là tầm tưsự. Sự là sự vật, những cái được gọi là thiện là những cái nào? Tức làđi tìm bản chất của những cái thiện đó. Khi đi sâu vào theo tinh thầnPhật giáo thì cái thiện được làm bằng những cái không phải là thiện.Và lúc đó ta không còn thái độ giáo điều nữa. Đạo đức học của Phậtgiáo không có tính chất giáo điều. Trong tôn giáo người ta đồng nhấthoá cái thiện với Thượng đế. Một bên là thiện, một bên là ác. Thiệnthuộc về Thượng đế, phe ác thuộc về ma vương, quỷ Sa Tăng. Haiphe đối lập nhau.

Nhưng trong siêu đạo đức học của Phật giáo tức là metta ethics củađạo Bụt, thì nền tảng của thực tại gọi là chân như đó, vượt thắng ýniệm về thiện ác, chánh tà. Nó không có sinh, không có diệt, không cócấu không có tịnh, không có tăng không có giảm, không có xấu,không có tốt. “Không” chính là như vậy. Trong khi đó phần lớn nhữngngười theo Cơ Đốc giáo lại nói Thượng đế đồng nhất với cái tốt, cáithiện, và như vậy Thượng đế không phải là nền tảng của vạn hữu.Trong khi đó thì đạo cũng như là niết bàn, cũng như là không, lànhững cái vượt thoát quan niệm về thiện ác, chánh tà. Tất cả nhữngcái đó đều là những cái giả danh.

Vì vậy cho nên khi ta nói tới thiện thì ta nói tới những yếu tố cấuthành nên cái gọi là thiện. Đó chẳng qua chỉ là giả danh thôi. Nókhông có giá trị tuyệt đối. Khi nói tới ác cũng vậy. Trong Tâm kinhnói là tánh không của vạn pháp vượt khỏi quan niệm về sinh, về diệt,về cấu về tịnh, về tăng về giảm. Cũng như hoa sen ở trong bùn, lớnlên ở trong bùn. Ai cũng biết rằng nếu không có bùn thì không có hoasen. Vì vậy nếu ta chạy theo hoa sen mà bỏ bùn lại phía sau lưng thìđó là thái độ không khôn ngoan. Tại vì nếu ta trừ hết bùn thì hoa sensẽ biến mất.

Đứng về phương diện khổ đau và an lạc cũng vậy. Nếu ta chạy trốn khổ đau để đi tìm an lạc thì không thể có được, vì an lạc được làm bằng những yếu tố không phải an lạc, sen được làm bằng những yếu tố không phải là sen. Sen rất cần tới bùn và con người chúng ta muốn có an lạc thì cũng phải biết nếm qua sự đau khổ. Vì vậy phải nhìn khổ đau bằng con mắt khác, bằng con mắt gọi là bất nhị. Tức là thấy đượ ctính tương tức của khổ đau và hạnh phúc, cũng như tính tương tức của trái và phải. Thái độ bỏ một cái để chạy theo một cái là thái độ nhị nguyên.

Con người luôn có khuynh hướng chạy trốn khổ đau để đi tìm an lạc,không biết rằng chính những khổ đau dạy chúng ta nên người, từ khổđau mà con người lớn lên. Nếu chưa bao giờ quán chiếu về đau khổ,về nỗi tuyệt vọng thì làm sao bạn có khả năng cảm thông, có khả năngthương yêu? Mà không có khả năng cảm thông, không biết thươngyêu thì làm sao có hạnh phúc được?

Trong con người có Mạt na thức. Đó là thức thứ bảy. Nó luôn luôn cókhuynh hướng chạy trốn khổ đau, đi tìm hưởng thụ. Và nó khôngbiết sự thật là khổ đau rất hữu ích. Khi nhìn khổ đau bằng con mắt đóthì ta không sợ hãi nữa. Ta có thể ôm lấy khổ đau của mình để lớn lên.Và lúc đó ta mới thật sự có hạnh phúc. Thành ra hạnh phúc dựa trênbối cảnh của khổ đau.

Nếu không thấy đói thì ta ăn không thấy ngon. Phải thật đói thì ănmới cảm thấy ngon miệng. Vì vậy cho nên tất cả những quan niệm vềthiện ác, chánh tà, trước hết chỉ là danh từ thôi. Chúng ta phải đi tớisự thật. Tới sự thật rồi thì ta thấy rất rõ là sự thật đó được làm bằngnhững sự thật khác, hoa được làm bằng những yếu tố không phảihoa. Cái thiện cũng vậy, mà cái ác cũng vậy. Do đó quan niệm vềthiện-ác, chánh-tà trong đạo Bụt chỉ có tính chất tương đối. Cái màkhoa gọi là metta ethics (siêu đạo đức học) chỉ mới xuất hiện có mấychục năm gần đây thôi nhưng rất sâu sắc, đạo Bụt cũng nhấn mạnh vềcái này rất nhiều.

Xem Tiếp Chương 12 – Quay Về Mục Lục




0 Đánh giá

Ads Belove Post